Ngày ấy, cái giọng ngâm khỏe nhưng trầm buồn của ba tôi cất lên bài “Văn tế thập loại chúng sinh” của thi gia họ Nguyễn là tôi đã mơ hồ về một khoảng thời gian kỳ lạ của năm. “Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát / Nước tịnh bình tưới hạt dương chi” (*), phải chăng tiết lạnh se se ấy đủ để làm mềm lòng người kể cả các linh hồn phiêu dạt mang đầy nghiệp chướng cũng dễ trút bỏ lớp áo nặng nề để rưng rưng đưa tay hứng giọt tịnh bình – mưa ngâu, mà mát dịu bớt hồn mình.
Tiết ấy, mẹ dắt tôi lên ngôi chùa nhỏ gần nhà, tự tay cài lên ngực tôi một bông hồng đỏ, mắt người lấp lánh niềm vui. Giờ tôi mới hiểu ý nghĩa tia nhìn vui vẻ ấy, người vui cho mình thì ít mà mừng cho thằng tôi trẻ con có nơi để dựa dẫm, có điều để tôn thờ, có chân trời chia sẻ. Tôi ưỡn ngực vênh vang với bông hoa đỏ chói niềm vui ra đứng giữa bầy trẻ con chộn rộn. Mẹ vội kéo tay tôi khi tôi cứ hỏi dồn cô bé có đôi mắt buồn rằng “sao hoa của bạn trắng quá, có đổi không?”.
Mẹ xoa đầu bạn ấy, dắt hai đứa ra sau hiên chùa, múc cho mỗi đứa một tô cơm chay ngon lành. Tôi thôi không hỏi về màu hoa nữa, tôi thấy ánh nhìn ganh tị của cô bé cho đóa hoa trên áo tôi. Tôi chỉ cho cô bé con chim chích chòe lửa sao ở đâu bay về đậu trên vai tượng Phật hót vui ghê.
Cơm hai đứa ăn là cơm bá tánh, chịu ơn bá tánh phải trả lại cho bá tánh.
Mẹ bảo “cơm hai đứa ăn là cơm bá tánh, chịu ơn bá tánh phải trả lại cho bá tánh”. Tôi phụng phịu “con không có gì để trả cả”! Tôi sợ mẹ thấy tôi còn viên bi ve trong túi, viên bi khi ngủ tôi cũng còn mang theo, tài sản quý giá nhất mà tôi có. Mẹ cười “con phải yêu bạn bè, quý cha mẹ, tuân Phật pháp là trả nợ được bá tánh rồi”. Cái đó thì dễ mà, tôi móc ngay viên bi, soi lô ngay bên cạnh vườn tượng dựng tích Mục Kiền Liên mà chơi bi cùng cô bé ấy, ngay bên cạnh các cầu khấn, các nhang khói, tiếng ồn ào của người viếng chùa.
Nhiều năm sau, tôi còn nhớ nét lấp lánh trong đôi mắt cô bé cài hoa trắng khi viên bi vào lỗ và tôi hiểu rằng tôi chỉ mới trả được một phần rất nhỏ tô cơm bá tánh mẹ xới cho mình năm nào dưới hiên chùa. Tôi nợ gì? Chắc là nợ cái tiết thu se lạnh làm bình yên hồn người năm đó.
Chiều rằm tháng Bảy, khi cái không khí mới ngả màu vàng vọt của mặt trời còn nán lại tí chút, khi ánh trăng còn chưa kịp lớn để chiêu sự trong sáng trong tâm khảm thì tôi đã thấy ông. Ông thổi sáo, tiếng sáo réo rắt kể về những người lính vô danh “Khi thất thế cung rơi đạn lạc / Bãi sa trường thịt nát máu rơi” (*), tiếng sáo vang vang về tấm lòng người mẹ bao la như đại dương chiếm ba phần tư trái đất nhiều đau buồn này. Tôi quên cả chiều, quên cả trăng, quên cả sự Xá tội hay Vu Lan, ngồi nghe mải miết. Ông lão thấy tôi nhìn sững vào âm thanh cũng thổi quên cả việc chính là quyên góp lòng từ thiện.
Đến khi tỉnh ra, ông vội bỏ đi, còn tôi cứ bối rối tần ngần trước ngõ. Ba gọi tôi vào, vét hết túi, còn ít tiền ba để dành cắt tóc đưa tôi bảo chạy theo mà kính cẩn dâng hai tay cho người thổi sáo. Tôi thấy niềm vui trong mắt ông lão. Tôi thấy niềm vui trong lòng mình.
“Ông ấy không xin con ạ. Ông ấy lao động, còn hơn lao động ông ấy gợi trong lòng con điều thiện, ông ấy cho con biết ngày hôm nay là ngày chúng ta đối xử tốt với nhau. Ông ấy cho con những cảm xúc mà khi lớn lên con phải biết ơn, nên số tiền nhỏ ấy nếu có hơn ba cũng sẽ kêu con biếu ông ấy. Hãy nhớ tiếng sáo này con nhé,” ba tôi nói.
Sao con quên được, thưa ba. Hai bài sáo người nghệ sĩ lang thang chỉ dành riêng cho mùa Vu lan, hai bài sáo mà qua đó con học được nhiều hơn tất cả các bài giảng đạo đức trong sách học thuộc lòng. Sao con quên được mái tóc ba đến tháng sau mới dư ít tiền đi cắt, mái tóc dài thượt cho một lần dạy con yêu thương và tôn trọng người khác, không chỉ trong những ngày tháng Bảy, mà mọi phút giây con còn hơi thở.
Mùa Vu lan, sao mọi người đứng gần nhau hơn? Sao lòng người lân mẫn, từ bi hơn? Do trăng sáng đẹp quá chăng hay do mưa ngâu từ sông Ngân tràn vào lòng người? Cũng có thể, khi mùa Phật pháp nở hoa trên ngực người, trong ngực người thì các linh hồn dù nghiệp chướng nặng đến đâu cũng có thể ăn hết bát cháo lá đa rồi lấy lá ấy làm thuyền mà chèo về nơi tỉnh thức. Tôi thắp nén nhang cắm ngoài cửa, khói len vào mưa vào trăng, dịu dàng như tháng Bảy, bao dung như mắt Phật nhìn.
(*) Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du
Thục Linh là một nhà thơ, nhà báo. Lớn lên trong nắng gió cát miền Trung, học văn chương và thích thú với công nghệ.
Nghe đọc thêm

Văn nghệ cuối tuần (111) Mẹ
Thêm thông tin và cập nhật Like SBS Vietnamese Facebook
Nghe SBS Radio bằng tiếng Việt mỗi tối lúc 7pm tại sbs.com.au/Vietnamese
Nghe SBS Radio bằng tiếng Việt mỗi tối lúc 7pm tại sbs.com.au/Vietnamese
Share





