Bản báo mới cho thấy số tử vong ở trẻ em và vị thành niên trên thế giới đã giảm xuống 52% từ năm 1990.
Tỷ lệ tử vong giảm mạnh nhất là lở các trẻ em lứa tuổi từ 1-4 tuổi theo như Giáo sư Nicholas Kassebaum đồng tác giả của bản báo cáo cho biết là nhờ vào sự gia tăng các biện pháp điều trị và hệ thống chủng ngừa.
"Tỷ lệ tử vong ở t rẻ em và thanh thiếu niên giảm là nhờ rất nhiêu vào những sự cải thiện về chế độ dinh dưỡng, ảnh hưởng tích cực tới sức khỏe sản phụ trước và sau khi sinh. Các biện pháp chích ngừa lan rộng ra các nước cũng giúp hạn chế mức lây lan và nguy hiểm của những căn bệnh trẻ em vốn có thể ngăn ngừa được."
Mặc dù có những tiến bộ nhưng những đe dọa từ các căn bệnh như H-I-V AIDS vẫn còn là một vấn đề nổi cộm đối với một số nước thêm vào đó tử vong ở trẻ do thiên tai và chiến tranh cũng là là một vấn đề lớn tại một số khu vực.
Quốc gia Niger (NI-JER) ở Châu Phi theo đánh giá vào năm 2018 của Save the Children là nơi có tỷ lệ trẻ em chết nhiều nhất trên thế giới.
Báo cáo về Mối Đe dọa bệnh tật trên Toàn Cầu (Global Burden of Disease) cho biết mỗi quốc gia trong vùng Hạ Saharan đều có vấn đề khiến tỷ lệ tử vong ở trẻ em cao, nếu không là những rối loạn trước và sau sinh, sốt rét hoặc H-I-V AIDS thì những căn bệnh như tiêu chảy hoặc nhiễm trùng đường hô hấp là nguyên nhân hàng đầu của tử vong ở trẻ tại những quốc gia này.
Khác với những khu vực khác thường tỷ lệ tử vong ở trẻ em cao là do dị tật bẩm sinh hoặc sinh non thì tại khu vực hạ Sahara những bệnh khiến trẻ em nơi này chết phần lớn là thuộc loại có thể ngăn ngừa được.
Ở Úc theo như Giáo sư Kassebaum nói tỷ lệ tử vong trẻ em đã giảm 70% từ năm 1990, và nguyên nhân cái chết ở trẻ em Úc phần lớn do tại nạn xe cộ.
"Trong vòng 28 năm qua có một sự cải thiện đáng kể về thương tật. Có ít tai nạn xe cộ, tỷ lệ trẻ chết đuối giảm, tỷ lệ người đi bộ bị xe đụng giảm, tỷ lệ thương tật và tử vong trong các vụ tai nạn xe cộ giảm. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong ở trẻ sinh non, sinh dị tật hoặc những vấn đề liên quan đến thai kỳ và sinh nở gia tăng, điều này liên quan đến tuổi mang thai và những vấn đề phức tạp trong lúc mang thai."
Tại Úc những bệnh thường được xem như gây tử vong lớn cho trẻ em là như Bác sĩ De Souza người có gần 30 năm làm việc trong vai trò bác sĩ gia đình GP ở khu vực Central Coast ở NSW cho biết bệnh epiglotitis, một loại bệnh về thanh quản và đường hô hấp thường dây tử vong cao ở trẻ thì thời gian sau này ít gặp hẳn.
"Từ cả hơn 10 hay 15 năm gì đó tôi chưa hề gặp một trẻ em nào mắc chứng bệnh này. Bệnh viêm màng não cũng giảm nhiều nhờ vào chủng ngừa. Cùng lúc đó thì các biện pháp điều trị các căn bệnh ác tính cũng đã tiến bộ nhiều, có rât nhiều các chứng ung thư ở trẻ đã được chữa lành với tỷ lệ lên đến 90% hay hơn, tất cả đóng góp làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ tới 50% so với thời tôi mới ra trường và hành nghề bác sĩ."
Những tiến bộ trong y học đã làm một cuộc thay đổi ngoạn mục trong việc điều trị kéo theo những cải tiến trong một số phòng ngừa chẩn đoán giúp sớm tìm ra bệnh.
Mặc dù tỷ lệ tiêm ngừa giữa người Thổ dân và người Không Thổ dân là khá tương đồng, tư nhiên theo Save the Children thì việc hạn chế về giáo dục là rào cản chính cho những can thiệp sớm vào những bệnh trẻ em trong cộng đồng Thổ dân.
Các khu vực xa xôi như Bắc bán đảo Dampier ở Broome thường có những dịch vụ y tế tới thăm khám tuy nhiên không có mấy cha mẹ đưa các em tới .
Tại các nơi này phần lớn trẻ nhận được điều trị hay khám chữa bệnh là khi các em đến tuổi tới trường và việc này là nhờ vào hệ thống y tế h ọc đường.
Mặc dù vậy thì theo Tiến sĩ Megan William là một người Úc Thổ dân giảng viên về Sức khỏe thổ dân tại đại học UTS Sydney nói người Thổ dân và dân đảo Torres Strait đạt đến độ tuổi 20 nhiều hơn so với trước đây.
Bà nói sực khỏe và sự bình ổn về đời sống có một ảnh hưởng quan trọng lên trẻ em và thanh thiếu niên trên toàn thế giới trong đó có Úc.
"Dữ liệu cho thấy các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh vẫn còn rất cao, vì vậy các bà mẹ vẫn cần được chăm sóc và hỗ trợ rất nhiều trong khi mang thai - nghèo đói là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong sau sinh cao kèm theo những yếu tố kém hiểu biết về sức khỏe trong xã hội"
Do vậy, Tiến sĩ Williams tin rằng các chuyên gia y tế cần sử dụng định nghĩa toàn diện về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới, điều này cho thấy sức khỏe có liên quan đến, không chỉ các vấn đề của cá nhân, mà cả bối cảnh xã hội của họ.
Mời vào phần audio để nghe toàn bộ nội dung




