Một bộ xương hóa thạch gần như hoàn hảo đã được tìm thấy tại sa mạc Nam Úc. Đây là chìa khóa giải đáp bí ẩn trong suốt 150 năm qua về loài động vật khổng lồ này.
Những con kangaroo khổng lồ được gọi là Protemnodon, được mô tả lần đầu tiên vào năm 1874 bởi nhà tự nhiên học người Anh Sir Richard Owen, lúc đó ông đã phân biệt loài này dựa trên sự khác biệt của răng, theo phong cách nghiên cứu thời đó.
"Hoá ra răng rất đa dạng, và phong phú hơn nhiều, và vì vậy về căn bản trong 150 năm qua, thật khó để nhận biết có bao nhiêu loài khác nhau và làm sao để phân biệt chúng."
Đó là Tiến sĩ cổ sinh vật học Isaac Kerr, người dẫn đầu nghiên cứu của trường Đại học Flinders.
Ông đã kiểm tra hàng trăm bộ xương của con Protemnodon trong các viện bảo tàng trên khắp nước Úc, Tân Guinea, Vương quốc Anh và tại Hoa Kỳ, bằng máy quét 3D.
Thế nhưng chỉ đến khi các nhà nghiên cứu tiếp cận một địa điểm khảo cổ, tại Hồ Callabonna ở vùng Nam Úc khô cằn, thì mới khai quật được một manh mối quan trọng.
Họ phát hiện ra bộ xương hóa thạch có hàm răng tương tự với những gì Owen mô tả, nhưng hình dạng cơ thể rất khác biệt.
“Cuối cùng, dấu hiệu nhận biết chính là kích thước của chi sau khác nhau giữa các loài, và đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy kangaroo có sự khác biệt, về khả năng chạy, tốc độ cũng như bước nhảy. Ở đây chúng ta đang phân biệt dựa trên sự chuyển động của các loài, chuyển chậm chậm hay thấp, chuyển động trung bình và chuyển động cao. Vì vậy, kangaroo đỏ có xương đùi rất ngắn, chân trên rất ngắn và xương ống chân rất dài. Đặc điểm này giúp cơ thể đứng vững trên bàn chân khi chúng nhảy. Một số loài kangaroo khác cũng có dấu hiệu đó, một số khác có xương đùi và xương ống chân cùng kích thước, chẳng hạn một loài kangaroo sống trên cây.”
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học Megataxa, đã dẫn đến sự mô tả chính thức về ba loài Protemnodon.
Thứ nhất là loài Protemnodon Viator sống ở những vùng khô cằn, và có kích thước to gấp đôi một con kangaroo đỏ lớn.
Isaac Kerr nói về kangaroo khổng lồ Viator như sau.
“Chúng rất lớn, nặng tới 170 kg, với các chi sau rất dài. Nó có lẽ là một loài nhảy xa, khá nhanh và hiệu quả. Không nhanh và giỏi như cú nhảy của loài kangaroo đỏ, nhưng cũng tương tự ở một số khía cạnh, và loài này sống phổ biến khắp nước Úc khô cằn. “
Loài thứ hai - Protemnodon Mamkurra khỏe mạnh hơn, chân tay dài hơn nhưng di chuyển chậm hơn, loài này được cho là đã quay trở lại các khu vực có rừng rậm, ở miền bờ biển phía nam từ Tây Úc đến tận Tasmania.
Tiến sĩ Kerr mô tả con Mamkurra như sau:
"Một số con Protemnodon quay trở lại môi trường sống có rừng rậm, ở những nơi như Tân Guinea, Tasmania và bờ biển phía đông của Úc. Trong môi trường sống đó, kangaroo Mamkurra không cần thiết thực hiện những cú nhảy xa, hiệu quả và nhanh chóng, như bạn thấy ở loài kangaroo sống trong môi trường rộng mở, vì vậy tốt hơn hết là bạn nên di chuyển chậm hơn, nhưng khéo léo hơn một chút để len qua những bụi cây rậm rạp, để rồi cuối cùng tiến hoá gần đến những con kangaroo giống quokka hoặc potteroo hơn một chút."
Loài thứ ba - Protemnodon Dawsonae được tái hiện từ ít dữ liệu hóa thạch hơn, và loài này đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn. Rất có thể đó là một kangaroo khổng lồ có tốc độ trung bình, một dạng giống như wallaby sống ở vùng đầm lầy.
Những khám phá mới sẽ giúp các nhà nghiên cứu mở rộng kiến thức, về những gì mà những người khổng lồ này đã làm.
"Mọi người có thể xem xét cách chúng tương tác với môi trường, bạn biết đấy, chúng có di chuyển theo đàn như những con kangaroo hiện nay hay không, chúng có sinh sản giống những con kangaroo đang sống hiện nay không."
Các nhà nghiên cứu nay đang hướng đến Tân Guinea, họ hy vọng có thể khám phá và mô tả được một loài kangaroo khổng lồ cổ đại khác.