“Chúng tôi được biết đến như là bộ tộc butterfish – Gynburra – hay còn gọi là người của loài cá dusky morwong. Loài cá này không phải loại cá ăn phổ biến trên bàn ăn, nhiều người coi nó chẳng có giá trị, thậm chí là ‘rác rưởi của biển’. Nhưng với chúng tôi, nó là biểu tượng gắn liền với cộng đồng.”
Ông Gary Goldsmith, Giám đốc Tập đoàn Thổ dân Nurungga Nation Aboriginal Corporation – đơn vị nắm giữ quyền sở hữu đất truyền thống tại Guuranda (Bán đảo Yorke, Nam Úc) – đã phát biểu tại cuộc điều trần của Thượng viện, điều tra về hiện tượng tảo nở hoa khiến hàng trăm loài cá, trong đó có Gynburra, chết dạt vào bờ.
“Chúng tôi chứng kiến cá chết dạt vào bờ, mà không hiểu tại sao, chuyện gì đang xảy ra, cách ứng phó sẽ ra sao hay khi nào chính phủ tiểu bang hoặc các chuyên gia sẽ đến để trao đổi với chúng tôi về bản sắc và mối quan hệ gắn bó của chúng tôi với biển cả. Theo tôi, điều này thật sự thiếu tôn trọng. Thật đáng buồn khi chúng tôi không được tham gia vào cuộc đối thoại đó.”
Vấn đề này đang gây ra nỗi lo lắng sâu sắc trong cộng đồng, khi một phần ba đường bờ biển Nam Úc hiện đã bị ảnh hưởng ở nhiều mức độ khác nhau.
Loài tảo chính liên quan là Karenia mikimotoi. Giống như các loại tảo khác, nó vốn tồn tại tự nhiên, nhưng chưa từng xuất hiện ở mức độ độc hại chết chóc như hiện nay.
Loài tảo này giết chết cá bằng cách làm tắc mang, dẫn đến hiện tượng chết hàng loạt sinh vật biển – tình trạng đã kéo dài suốt nhiều tháng.
Hiện tượng tảo nở hoa quy mô lớn này lần đầu được xác định vào tháng Ba, nhưng đã có dấu hiệu cảnh báo từ trước đó.
Nhà sinh thái học Faith Coleman, hiện đang làm việc tại Nam Úc, là người đang theo dõi sát sao tình hình.
“Trước hết, vào tháng Mười Một, những chủ sở hữu truyền thống ở khu vực đông nam đã nói với tôi về những hiện tượng lạ xảy ra với các rặng rong biển của họ.”
Qua các bức ảnh chụp từ trên không, bà cho biết có thể thấy rong biển trông như đang tan chảy khỏi các tảng đá, nhiều khả năng là do một đợt sóng nhiệt biển kéo dài.
Đợt sóng nhiệt này có thể đã góp phần kích hoạt hiện tượng tảo nở hoa, nhưng theo bà Coleman, lượng rong biển phân hủy sau đó mới là yếu tố thúc đẩy tảo phát triển mạnh.
“Sau đó là những ngư dân quanh khu vực Boatswain Point. Rồi cuối cùng, các vận động viên lướt sóng và truyền thông cũng bắt đầu nói về vấn đề ở những bãi biển phía nam Fleurieu. Và từ đó đến nay, tình trạng này vẫn chưa chấm dứt.”
Đến đầu tháng Ba, chính quyền Nam Úc đã nhận được phản ánh từ khoảng một trăm người lướt sóng, than phiền về tình trạng kích ứng mắt tạm thời, ho và các vấn đề hô hấp.
Kể từ đó, chính quyền liên tục chạy theo để ứng phó – từ nghiên cứu nguyên nhân đến hỗ trợ cộng đồng – nhưng thường xuyên bị chỉ trích là quá chậm trễ.
Ngư dân thương mại Bart Butson nhớ lại cảm giác lo sợ khi chứng kiến hiện tượng tảo nở hoa tiến dần đến vùng biển của mình.
“Nó giống như một tấm màn thảm họa. Thật sự, tôi nghe từ những ngư dân khác cũng cùng một lời cảnh báo: ‘Anh sẽ không thích đâu khi nó kéo đến, chuyện này khủng khiếp lắm’. Cá biến mất chỉ sau một đêm, hoặc di chuyển đi nơi khác.”
Ông cho biết mình cảm thấy bất lực khi khủng hoảng diễn ra trước mắt.
“Chúng tôi thấy những con mực nang nổi chết trên mặt nước. Chỉ trong một ngày sau cơn bão, có thể nhìn thấy hàng trăm, hàng trăm con. Và rồi từ thời điểm đó, chỉ trong vòng hai tuần, không còn con mực nào nữa. Từ đó đến nay tôi chưa từng thấy mực trở lại. Sau đó, cá garfish cũng biến mất. Và đó mới chỉ là những loài cá thương mại. Chúng tôi còn chứng kiến cá mập trắng chết, cá mập gummy chết, cá mập bronze whaler chết, cá đuối fiddler chết, cá đuối trơn chết. Tất cả những loài cá ăn tầng đáy cũng chết rất nhanh.”
Cá đánh bắt từ Nam Úc vẫn an toàn để ăn, miễn là còn sống khi được bắt lên và được làm sạch đúng cách. Nhưng với việc khai thác thương mại gần như bất khả thi, ông Bart Butson cho rằng nguồn cá cần được nghỉ ngơi, tái tạo.
Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam Úc (South Australian Research and Development Institute) hiện đang tiến hành đánh giá nhanh về trữ lượng cá, như một phần trong đợt nghiên cứu tổng thể về hiện tượng tảo nở hoa.
Trong thời gian chờ đợi, một số bộ phận của ngành đánh bắt thương mại hoan nghênh sự hỗ trợ đã được cung cấp, nhưng họ cũng cho rằng cần thêm nhiều biện pháp nữa.
“Điều này có thể thực hiện bằng cách tiếp tục mở rộng hệ thống trợ cấp, hoặc chính phủ có thể thuê lại một phần hạn ngạch – hoặc kết hợp cả hai. Cũng có thể cần mua lại giấy phép đánh bắt để một số ngư dân nghỉ hẳn, bởi họ không thấy được lối thoát. Ngành đánh bắt sẽ cần hỗ trợ để giữ chân những lao động có tay nghề.”
Hiện tại, nguồn kinh phí đến từ gói hỗ trợ 28 triệu đô la được chính quyền tiểu bang và liên bang công bố hồi tháng Bảy.
Gói này bao gồm hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các khoản trợ cấp; chi trả cho công tác nghiên cứu khoa học và giám sát; thành lập một phòng thí nghiệm quốc gia mới để kiểm định độc tố; cung cấp dịch vụ sức khỏe tinh thần; và thúc đẩy sáng kiến du lịch.
“Lượng khách du lịch rõ ràng đã giảm.”
Adam Gray là giám đốc điều hành của Liên minh các hội đồng ven biển Nam Úc.
“Ở một số khu vực, lượng khách giảm hơn 40% so với mức bình thường. Các khu nghỉ caravan vốn dĩ thường kín chỗ thì nay trống rỗng. Đặt chỗ cắm trại giảm mạnh, nguồn thu từ bến tàu cũng sụt giảm rõ rệt. Điều đó cho thấy mọi người đang tránh xa nơi này.”
Đối với nhiều hội đồng địa phương, tình trạng thủy triều đỏ đã khiến nguồn thu giảm sút trong khi chi phí lại gia tăng.
Hội đồng Thành phố Holdfast Bay cho biết họ đã phải thu dọn tới 140 tấn sinh vật biển chết, rong biển và cát.
Trong khi đó, Phó Thị trưởng Hội đồng Bán đảo York, ông Richard Carruthers, nói rằng sức khỏe tinh thần của cộng đồng đang bị ảnh hưởng nặng nề.
“Thật sự đáng lo ngại cho thị trấn của chúng tôi khi trên bến tàu không có một ai – không một người nào. Trong kỳ nghỉ hè, bình thường có hàng trăm trẻ em ở đây. Thật đáng lo; một số phụ huynh quay lại nhưng không kịp đưa con ra khỏi bến tàu, bởi vì những gì họ nhìn thấy dưới đáy chỉ là màu bạc – và lũ trẻ hỏi: ‘Ở dưới đó là gì?’ Thì ra toàn là cá chết. Nhìn như một tấm thảm cá chết. Chúng tôi không biết điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến trẻ em.”
Sự lan rộng và tồn tại kéo dài của hiện tượng tảo nở hoa đã khiến chính quyền tiểu bang và liên bang bất ngờ.
Cuộc điều tra Thượng viện ngày 24/9 cho biết chính quyền tiểu bang đã không thông báo cho phía liên bang trong hơn hai tháng.
Chính quyền Nam Úc phủ nhận điều này, nhưng thông tin trên khiến nhiều người đặt câu hỏi liệu các chiến dịch nghiên cứu và thông tin có thể được triển khai sớm hơn hay không.
Dù có một số chỉ trích, các bằng chứng được trình bày trong cuộc điều tra chủ yếu tập trung vào tìm cách khôi phục sức chống chịu của các hệ sinh thái biển.
“Điều đó sẽ cho chúng tôi một mục tiêu.”
Người nói là Bart Butson.
“Ngư dân đang lạc lối. Có khoảng 40–50 người ở Vịnh St Vincent hiện không làm gì cả. Họ cần một mục tiêu và muốn tham gia vào giải pháp. Vì vậy, bất cứ việc gì ngành đánh bắt có thể làm để sử dụng kiến thức và trang thiết bị của mình đều sẽ được hoan nghênh.”
Ông cho biết ngành đánh bắt đã trao đổi với chính phủ về việc hỗ trợ các nhà khoa học thực hiện đánh giá nhanh trữ lượng cá.
“Chúng tôi sẽ đi thu thập dữ liệu, và tôi sẽ thực hiện điều đó bằng cách sử dụng lưới kéo ở những khu vực chúng tôi thường đánh bắt, như cá garfish, mực nang và cá whiting. Chúng tôi chỉ làm một mẫu thử. Trong một số ngày, sẽ có những người từ cộng đồng khoa học đi cùng, hướng dẫn cách thiết lập và chỉ dẫn chúng tôi.”
Các nhà khoa học chính là công dân ở đây đã đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập dữ liệu về tình trạng cá chết và mức độ tảo.
Các Chủ sở hữu Truyền thống, như ông Garry Goldsmith, cho biết họ cũng muốn tham gia vào việc tìm ra giải pháp.
“Hiện nay, chúng ta đang kết hợp các phương thức văn hóa truyền thống và phương pháp phương Tây để quản lý Bãi Biển của Vùng Đất, và tôi nghĩ đây là điều cần được thảo luận tại bàn làm việc, một cách tôn trọng.”
Ông cho biết các nhân viên bảo tồn người bản địa nên được tham gia vào các nỗ lực giám sát và quản lý liên tục.
“Chúng tôi đang chủ động đề xuất các giải pháp với chính phủ về cách tận dụng nguồn lực, và làm thế nào để đưa ra một số giải pháp thông qua hợp tác với các tổ chức địa phương, chính quyền tiểu bang và các chuyên gia – nhằm quản lý Bãi Biển của Vùng đất cũng như ứng phó với tình trạng này.”
Hiện tại, chính quyền tiểu bang đang xây dựng một kế hoạch mùa hè để hướng dẫn nghiên cứu, giám sát và quản lý nếu hiện tượng tảo nở hoa tiếp tục trong những tháng tới.
Các chuyên gia học thuật đã chứng thực cần có thêm kinh phí nghiên cứu khoa học trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Stefan Andrews là đồng sáng lập của Tổ chức Great Southern Reef Foundation.
“Bản kiến nghị của chúng tôi đề xuất một khoản đầu tư liên bang hai giai đoạn: trước hết, 6 triệu đô la trong hai năm để khởi động một khuôn khổ phối hợp, nhằm thực hiện kiểm tra sức khỏe đa dạng sinh học liên bang đầu tiên của Great Southern Reef; tiếp theo, 40 triệu đô la cho chương trình giám sát tích hợp 10 năm của Great Southern Reef, được đồng thiết kế cùng chính phủ, các cộng đồng Thổ dân, các nhà khoa học và các đối tác cộng đồng.”
Ông cho biết hiện tượng tảo nở hoa là một cảnh báo về tác động của biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái biển, đặc biệt là các rạn san hô ôn đới.
Việc nó xảy ra tại Nam Úc cũng đồng nghĩa nguy cơ tái diễn cao hơn, đặc biệt khi nhiệt độ tiếp tục tăng.
Các chuyên gia đều đồng ý rằng cần một khuôn khổ quốc gia để nâng cao khả năng ứng phó trong tương lai.
Giáo sư Craig Simmons là Nhà Khoa học Trưởng của Nam Úc.
“Tôi nghĩ rõ ràng rằng chúng ta cần hướng tới không chỉ một hệ thống cảnh báo sớm cấp tiểu bang mà còn là một hệ thống cảnh báo sớm quốc gia cho các đợt tảo độc hại. Chúng ta cần xem xét việc cấp kinh phí và hỗ trợ cho việc phát hiện độc tố theo thời gian thực. Vì vậy, khả năng cảnh báo sớm và dự đoán là yếu tố then chốt. Tất cả cần được kết nối với mô hình dự đoán và giám sát sinh thái.”
Giáo sư Simmons cho rằng các chính quyền tiểu bang nên hợp tác chặt chẽ hơn với một số bộ phận của CSIRO, Cục Khí tượng, và các cơ quan liên bang khác.
“Và một trong những điều chúng tôi đang thảo luận là khả năng thành lập một trung tâm quốc gia về các đợt tảo độc hại.”
Trong khi phản ứng của chính phủ tập trung vào các chương trình cấp vốn trợ cấp, vẫn có những biện pháp dài hạn có thể giúp tăng cường sức chống chịu lâu dài.
Trong số các biện pháp triển vọng nhất là tái tạo các rạn hàu tự nhiên.
Người phát biểu lại là Gary Goldsmith.
“Chúng tôi gọi chúng là birra-ungky. Chúng đã bị phá hủy từ đầu những năm 1900 bằng các lưới kéo lớn, và không bao giờ được phục hồi.”
Birra-ungky là một loài thiên địch tự nhiên của loài tảo Karenia mikimotoi. Và đây chỉ là một ví dụ – nhưng nhà sinh thái học Faith Coleman cho biết 1.500 km tuyến hàu bản địa đã bị loại bỏ.
Bà nói rằng nếu chúng không bị phá hủy, hiện tượng tảo độc hại có thể đã lan tỏa nhanh hơn và kết thúc sớm hơn.
Năm 2018, chính quyền Nam Úc đã hoàn thành một thử nghiệm tái tạo 20 ha.
Ông Garry Goldsmith cho biết ông muốn thấy dự án này được mở rộng ở quy mô lớn hơn.
“Khu vực này của đất nước lẽ ra đã được bảo vệ tốt hơn – hoặc có sức chống chịu cao hơn nếu những biện pháp đó được thực hiện. Người dân của chúng tôi sẽ nhận thấy điều đó. Họ đã ăn birra-ungky. Chúng tôi vẫn ăn birra-ungky. Đó là một phần quan trọng của con người chúng tôi.”
Hiện tượng tảo nở hoa tàn khốc đã nêu bật tầm quan trọng của các hệ sinh thái biển đối với cộng đồng tại Nam Úc và khởi xướng việc tìm kiếm các giải pháp để bảo vệ chúng trong tương lai chịu tác động của biến đổi khí hậu.
Cuộc điều tra Thượng viện dự kiến báo cáo vào ngày 28/10, trong khi kế hoạch mùa hè của chính quyền Nam Úc cũng sẽ được công bố trong những tháng tới.
Đồng hành cùng chúng tôi tại SBS Vietnamese Facebook & SBS Vietnamese Instgram, và cập nhật tin tức ở sbs.com.au/vietnamese