Một “Nỗi buồn chiến tranh”, hai góc nhìn, và ba cuộc đời của một tác phẩm
Một “Nỗi buồn chiến tranh”
Nỗi buồn chiến tranh được sáng tác vào năm 1987 bởi nhà văn Bảo Ninh, và đã gây chấn động giới văn học bấy giờ về chủ đề chiến tranh. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Kiên, một người lính Hà Nội được gửi vào miền Nam Việt Nam những năm 1975. Tác phẩm đã khắc hoạ những gai góc, những giằng xé, những ti tiện và trần tục nhất trong nội tâm của một người lính bước ra từ Chiến Tranh Việt Nam, với tâm hồn và nhân tính đã bị vắt kiệt khó có thể hồi phục. Điều đáng nói là, cách xây dựng hình tượng, văn phong này đi ngược lại với thể loại tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dòng chủ lưu đã thống trị văn đàn Việt Nam suốt hơn 50 năm. Và cũng như nhiều tác phẩm văn học đã từng bị gạt khỏi văn đàn vì góc nhìn táo tợn ấy, Nỗi buồn chiến tranh cũng đã vấp phải những phản đối gay gắt của dư luận khi đạt các giải thưởng nghệ thuật.
Hai làn sóng dư luận
Trong năm 2025, sự chỉ trích khởi đầu khi Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh trong top 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật xuất sắc sau thống nhất do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam Tổ chức sáng ngày 30/11. Trong buổi vinh danh đó, nhà văn Bảo Ninh nhận hoa và bằng chức nhận từ Phó Thủ tướng Việt Nam Mai Văn Chính và Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Trịnh Thị Thủy. Trước đó, tác phẩm cũng được trích đoạn trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12 tập một phiên bản mới.
Ngay sau khi buổi trao giải kết thúc, Cựu Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Thanh Tuấn chia sẻ trên trang Facebook cá nhân: “Khi tôi làm cục trưởng tôi đã cố gắng đọc hết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và tôi đã thấy cái mùi phản trắc lồng vào tiểu thuyết để hạ thấp tính anh hùng của quân đội ta và đã nhen nhóm sự lật sử thông qua văn học nghệ thuật...
Nay không hiểu sao Hội nhà văn Việt Nam đã bất chấp sự thật chọn một tác phẩm như vậy để vinh danh là tác phẩm tiêu biểu và càng không hiểu vì sao hai vị đại diện cho Chính phủ lại trao giải này cho ông Bảo Ninh? Phải chăng trào lưu xét lại lịch sử đang lộng hành ở mọi cấp và 'tự diễn biến' đã không còn là lực lượng suy thoái trong Đảng mà đã và đang công khai thách thức dư luận và những ai bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta?"
Một bộ phận cư dân mạng cũng lên án chỉ trích tác phẩm, cũng như thắc mắc tại sao sách lại được cho vào sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12, với những từ ngữ miêu tả cuốn sách như “rác phẩm”, “lật sử”, “phản động”, “không khác gì truyện séc” hay gọi việc này là “tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy”.
Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ được nhiều độc giả mà còn giới chuyên môn trong và ngoài nước đón nhận tích cực. Tác phẩm được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ, được trao nhiều giải thưởng văn chương quốc tế như giải thưởng châu Á trong lĩnh vực văn hóa của Nhật báo Nikkei (Nikkei Asia Prize) năm 2011, giải Sim hun của Hàn Quốc năm 2016, giải Văn học châu Á năm 2018 (Asian Literature Award).
Giáo sư văn chương kiêm dịch giả Đức Günter Giesenfeld nhận định sách "thuộc hàng kinh điển thế giới ở dòng văn học chiến tranh", cùng các tiểu thuyết như Giã từ vũ khí hay Phía Tây không có gì lạ. Ngoài ra, Giáo sư Laichen Sun, từ khoa lịch sử của Đại học California, Hoa Kỳ, vào năm 2019 từng cho biết riêng tại Mỹ vào thời điểm đó đã có khoảng gần 30 trường đại học sử dụng cuốn Nỗi buồn chiến tranh làm tài liệu trong giảng dạy.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với đài BBC Tiếng Việt, nhà văn Trần Thanh Cảnh chia sẻ: "Một cuốn tiểu thuyết với dung lượng rất vừa phải, nhưng mang trong đó mọi sắc thái của chiến tranh và đời sống nước Việt một thời. Có anh hùng cao thượng, có ti tiện tối tăm. Có tình yêu trong sáng và cũng có cả những tình dục thấp hèn. Đặc biệt với những người đã trải qua đời lính, họ sẽ cảm nhận được tình đồng đội sâu sắc trong đó.”
Đồng quan điểm, nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu nhận định với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh xứng đáng được vinh danh ở khía cạnh nghệ thuật: "Thứ nhất, đọc cuốn sách, khó ai có thể phủ nhận Bảo Ninh là một nhà văn có trình độ ngôn ngữ văn học cao cấp, cách hành văn và vận dụng vẻ đẹp tiếng Việt của ông là hơn người. Thứ hai, cái 'nhìn' và 'thấy' của Bảo Ninh về những thân phận trong chiến tranh là thấu cảm, vượt qua biên kiến - nghĩa là không nhìn lệch về một bên"
Tác phẩm cũng được đón nhận vô cùng sâu sắc trong cộng đồng người Việt tại Úc. Trong một bài viết có nhan đề “ Nỗi buồn chiến tranh và hiện tượng thù ghét văn chương”, được trên báo Việt Luận ở Úc, tác giả Tina Cao đã nhận định: “Trong trường hợp Nỗi buồn chiến tranh, điểm khiến tác phẩm liên tục bị đặt vào tầm ngắm không phải là việc nó “kể sai” câu chuyện chiến tranh mà là nó từ chối kể về chiến tranh theo mô hình đã được chuẩn hóa. Không có trần thuật sử thi mạch lạc hay tiến trình anh hùng từ hi sinh đến vinh quang, cũng chẳng có lời bảo đảm nào cho rằng mọi mất mát đều được đặt vào một trật tự ý nghĩa lớn lao. Thứ hiện lên là một ý thức cá nhân bị chiến tranh làm cho vỡ vụn, trong đó thời gian mất đi tính liên tục, ký ức xuất hiện như những mảnh vỡ rời rạc và nỗi buồn không được thanh lọc thành đạo lí. Đây không phải là một thiếu sót nghệ thuật mà là lựa chọn hình thức phù hợp với bản chất trải nghiệm mà tác phẩm tìm cách diễn đạt. Chiến tranh, trong đời sống tinh thần của người sống sót, không được nhớ lại như một câu chuyện trọn vẹn mà như một ám ảnh kéo dài, dai dẳng trong ý thức.”
Ba cuộc đời của một tác phẩm
Đây không phải lần đầu mà cuốn sách bị chỉ trích. Từ thuở ra đời, cuốn sách đã gây xôn xao dư luận một thời. Các ý kiến về cuốn sách trên những trang báo chí nhà nước rất đa dạng và trái chiếu.
Làn sóng xôn xao thứ hai đã nổ ra vào năm 1991, khi Nỗi buồn chiến tranh là một trong ba tiểu thuyết được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải, cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của tác giả Dương Hướng. Báo The New York Times vào tháng 5/1995 có trích dẫn đôi lời từ Bảo Ninh: “Chỉ có mấy vị tướng tá thích nói về chiến thắng và chiến bại. Những người lính bình thường không thích nói về những điều đó. Tôi không cảm thấy vui hay tự hào về cuộc chiến này; chiến thắng trong chiến tranh, về mặt cá nhân, không hiểu sao tôi lại không cảm thấy được điều đó. Tôi nghĩ rằng tôi đã đánh mất tuổi trẻ của mình.”
Lúc bấy giờ, báo Công an TP HCM đã tổ chức một chuyên đề phê phán tác giả và tác phẩm. Tờ báo này chất vấn các thành viên trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa 4 đã bỏ phiếu bầu cho Nỗi buồn chiến tranh khi xét giải thưởng năm 1991.
Trong số những người từng bỏ phiếu cho tác phẩm này có các nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam, Nguyễn Thị Ngọc Tú... Trả lời báo Công an TP HCM, đa phần những người này đều thừa nhận những điều mà họ gọi là "mặt yếu kém" trong tác phẩm, nhưng cũng ghi nhận một số "mặt được" và giải thích lý do bỏ phiếu chủ yếu để "khuyến khích gương mặt mới".
Nhà văn Vũ Tú Nam nói: "Về phần cá nhân, khi bỏ phiếu trong Ban chung khảo, tôi đã thiên về khuyến khích một cây bút trẻ có năng khiếu văn học, đã trải qua chiến đấu thực sự. Tôi cũng đã rất phân vân về những mặt yếu kém của cuốn sách, như: Sự mơ hồ của tác giả giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, cái nhìn u ám nặng nề, chỉ thấy sự mất mát riêng tư mà không thấy chiến thắng lớn lao do đóng góp của toàn dân. Tôi không cho rằng khi viết, tác giả có ý đồ xấu về chính trị, nhưng sự mơ hồ và cái nhìn u ám của anh đã khiến cuốn sách phản ánh méo mó cuộc chiến đấu thiêng liêng của dân tộc."
Điều đáng chú ý là, sau hơn 30 năm, chính nhà nước Việt Nam lại công khai công nhận một tác phẩm từng bị tước giải, bị xem là “nhạy cảm”, từng bị đổi tên, và từng không thể xuất bản nguyên vẹn, bất chấp những trái chiều của dư luận trước đó, gợi lên sự sôi sục trong dư luận lần thứ ba.
Chia sẻ trên một trang báo, Tiến sĩ Văn học Hà Thanh Vân nhận định mỗi sáng tác văn chương thường trải qua ba cuộc đời. Cuộc đời thứ nhất được xác lập bởi tác giả, thông qua các giá trị nội dung, nghệ thuật. Cuộc đời thứ hai là tác phẩm đến tay người đọc, được soi chiếu bởi nhiều kỳ vọng. Cuộc đời thứ ba chỉ mở ra khi tác phẩm vượt qua độ lùi của thời gian, tiếp tục được độc giả tìm đọc và đánh giá nhờ nội lực thẩm mỹ. Bà chia sẻ:
''Việc Nỗi buồn chiến tranh xuất hiện trong danh sách tác phẩm tiêu biểu sau thống nhất và những cuộc thảo luận cho thấy tiểu thuyết của nhà văn Bảo Ninh đã bước sâu vào cuộc đời thứ ba''
Nhà thơ Trần Đăng Khoa, một trong những người tham gia hội đồng tuyển chọn cũng chia sẻ: “Bảo Ninh không đứng ở phía ta, càng không đứng ở phía địch. Nhà văn đứng về phía chủ nghĩa nhân đạo nhìn về cuộc chiến. Và vì thế mà cách Bảo Ninh viết về chiến tranh cũng rất khác. Việc chọn Nỗi buồn chiến tranh, một tác phẩm ngay từ khi mới ra đời cho đến nay vẫn gây ra những dư luận trái chiều nhau, tôi thấy đây là một hành động dũng cảm, vượt qua thường lệ của ban tổ chức."
Khi được hỏi về những lùm xùm xung quanh tác phẩm, nhà văn Bảo Ninh chia sẻ trên báo Dân Trí: "Khi tác phẩm của mình được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch vinh danh, tôi rất vui. Tôi biết có những ý kiến trái chiều nhưng không muốn nói gì vào lúc này vì thấy chưa phù hợp..."







