Nghi thức chào đón quan khách bằng âm nhạc sẽ là một phần của của lễ kỉ niệm của cộng đồng người Thổ Nhĩ Kỳ tại Bảo tàng Di trú Melbourne.
Gia đình nhà Kaya, hiện đang cư ngụ trong ngôi nhà nhỏ ấm cúng ở Sydney, là một gia đình tiêu biểu, đại diện cho thế hệ gia đình gồm 3 thế hệ người Úc gốc Thổ Nhĩ Kỳ.
Ở tuổi 97, ông Yasseer Kaya, nguyên quán Thổ Nhĩ Kỳ, đến Úc trên chuyến bay đầu tiên vào ngày 14/10, sau bản thỏa thuận được kí kết giữa 2 quốc gia, một năm trước đó.
“Tôi thật sự yêu thích mọi thứ trên đất Úc. Một quốc gia xinh đẹp, đa văn hóa. Mọi người đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau và cùng chung sống hòa hợp. Tất cả đều xem nhau như là anh chị em của mình. Do đó, mọi người sống rất chang hòa, không xảy ra mâu thuẫn gì”
Bản thỏa thuật được kí kết vào năm 1967, giữa chính phủ Úc và Thổ Nhĩ Kỳ đã dẫn đến những chiến dịch quảng cáo rầm rồ, khuyến khích những thanh niên trẻ đến Úc định cư.
Ông Kaya kể, trước đây, ông quyết định đến Úc với hy vọng sẽ kiếm đủ tiền để mua một ngôi nhà mới ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, khi vừa đặt chân đến Úc, sự thanh bình đã níu chân ông, và ông đã quyết định chọn nơi đây là quê hương thứ 2 của mình, và gắng bó cho đến tận ngày nay, khi đã ở tuổi "xưa nay hiếm".
Mặc dù có được cuộc sống tươi đẹp trên nước Úc, nhưng ông Kaya luôn bùi ngùi khi nhớ về những ngày tháng tăm tối ở thế chiến thứ nhất. Bởi vai trò của Úc trong các trận chiến ở Gallipoli, đã khiến ông gặp nhiều khó khăn khi kết bạn với những người Úc địa phương.
“Tôi có một người bạn, chúng tôi thường hay chuyện trò này nọ, nhưng khi biết tôi xuất thân từ Thổ, anh không muốn giao du với tôi nữa. Tôi hỏi tại sao, thì nhận được câu trả lời rằng, chính cha ông tôi đã giết ông cha của anh. Tôi lại hỏi anh, họ bị giết ở đâu? Anh nói ở Gallipoli.”
Cùng trên chuyến bay vào năm 1968 với ông Kaya là vợ Fatima và các con của mình. Ban đầu, bà Kaya cũng không nghĩ sẽ định cư lâu dài tại Úc. Bà chỉ muốn kiếm tiền trong vài năm, sau đó quay lại Thổ Nhĩ Kỳ. Thế nhưng, cũng giống như chồng mình, bà như bị thôi miên bởi vùng đất mến thương này.
“Đúng vậy, lúc mới đến đây, tôi chỉ muốn kiếm thật nhiều tiền để trở về Thổ mua một căn nhà. Nhưng điều này không xảy ra. Chúng tôi đã có công việc ổn định tại đây, các con tôi lớn lên ở đây. Và khi chúng đến tuổi học hành, tôi nghĩ rất khó để chúng quay trở lại trường học ở Thổ. Vì tương lai các con, tôi không muốn chúng quay lại học ở đó nữa. Đúng là một quyết định khó khăn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn sắp xếp để có những kì nghĩ với gia đình trên quê hương gốc của mình.”
Bản thỏa thuật được kí kết vào năm 1967, giữa chính phủ Úc và Thổ Nhĩ Kỳ đã dẫn đến những chiến dịch quảng cáo rầm rồ, khuyến khích những thanh niên trẻ đến Úc định cư, với nhiều hứa hẹn về công ăn việc làm, cũng như có tiền mua nhà và tận hưởng những ngày tháng tươi đẹp, với những bãi cát vàng và những ngày dài bất tận.

'Taste Of Sydney' will be held in 13-14 October in Darling Harbour, Sydney Source: SBS Turkish
Những người Thổ đến Úc phần đông theo dòng Hồi giáo Sunni. Kế đến là những nhà hoạt động thuộc các sắc tộc thiểu số, người Kurds, Allawies và một số nhóm Hồi giáo khác.
Từ năm 1968 đến 1974, khoảng 19.000 người đã đăng kí đến Úc. Qua đó, đánh dấu một bước quan trọng trong chính sách di trú, chỉ hướng đến những người da trắng. Chính sách này chấm dứt vào năm 1973.
Giáo sư danh dự ngành Xã hội học, trường Đại học Công nghệ Sydney, Andrew Jaku-Bowicz thông tin thêm, kể từ sau những năm 1970, di dân Thổ đã thay thế những di dân đến từ Ý và Hy Lạp trong nhiều trường hợp.
“Sau thời kì suy thoái đầu những năm 1960, nhiều người Ý, Hy Lạp và một số từ phía Nam Âu châu đã quay trở lại châu lục này, bởi nền kinh tế Âu châu đã bắc đầu khởi sắc. Do đó, Úc phải tìm kiếm nhân công mới, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Ngoài ra, Úc cũng kí thỏa thuận với Liên hiệp quốc, về chống phân biệt chủng tộc, đặt dấu chấm hết cho chính sách người Úc da trắng”
Thỏa thuận năm 1967 cũng là thỏa thuận di dân đầu tiên được kí kết với một quốc gia Hồi giáo. Và những người đến Úc phần đông theo dòng Hồi giáo Sunni, mà đa phần là nông dân. Kế đến là những nhà hoạt động thuộc các sắc tộc thiểu số, người Kurds, Allawies và một số nhóm Hồi giáo khác.
Mặc dù có xuất thân khác nhau, nhưng nhìn chung, những người Thổ đầu tiên di dân đến Úc đều mong muốn cải thiện cuộc sống, và chăm sóc gia đình tốt hơn.
Vào thời điểm đó, có rất ít các dịch vụ hỗ trợ từ chính phủ. Đa số các di dân đều tự giúp đỡ lẫn nhau trong mọi vấn đề. Không ai bảo nhau, người đến trước có nhiệm vụ giúp đỡ và hướng dẫn những di dân đến sau. Cô Umit, con gái ông Kaya, đến Úc năm 11 tuổi nhớ lại những ngày đầu còn bỡ ngỡ.
“Lúc đó chúng tôi chỉ sống quanh quẩn trong nhà, đến trường, và kết bạn phần đông với người Greek, bởi vì chúng tôi khá giống nhau về văn hóa và ẩm thực. Vậy nên, chúng tôi có nhiều bạn bè người Greek hơn bất cứ những cộng đồng nào khác”
Về vấn đề tôn giáo, theo cô Umit Kaya, lúc trước người dân Úc không để ý nhiều đến những người theo đạo Hồi như thời đại ngày nay.
“Tôn giáo không phải là vấn đề lúc đó. Mọi người dễ dàng chấp nhận hơn. Nhưng giờ, tôi không hiểu những gì đang xảy ra với cộng đồng Hồi giáo nữa. Những người Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ khác với những người Hồi giáo ở những quốc gia khác. Nói chung, dù thế nào đi nữa thì đây không phải là vấn đề”
Theo ước tính, hiện nay tại Úc có khoảng 60,000 người Úc có thể giao tiếp bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Cháu nội ông Kaya, Esther chia sẻ thêm rằng, cô chính là thế hệ may mắn nhất và là một trong những người thắng cuộc trong câu chuyện về di dân.
“Khi ngẫm lại, chúng tôi nghĩ mình thật sự may mắn. Tôi nói ra điều này, nhân danh chị gái tôi và những người anh em họ của tôi, rằng chúng tôi đã được ban phước lành, khi từ một gia đình tay trắng khi mới đến Úc, chúng tôi đã nỗ lực để xây dựng một cuộc sống tươi đẹp tại đây. Và không chỉ riêng người Thổ, tôi nghĩ các sắc dân khác tại Úc cũng vậy, nhất là những người trẻ như tôi, đang được thừa hưởng những thứ tốt đẹp nhất tại một quốc gia đáng sống nhất trên thế giới.”