Giang mai, bệnh lậu và chlamydia tăng mạnh
Các chuyên gia cho biết giang mai và bệnh lậu là những bệnh có thể điều trị và phòng ngừa. Tuy nhiên, tại Úc, số ca nhiễm đã gần như tăng gấp đôi trong thập kỷ qua.
Tiến sĩ Skye McGregor, nhà dịch tễ học tại Viện Kirby, cho biết:
“Phòng ngừa thực sự bao gồm thảo luận về sức khỏe tình dục với bạn đời, xét nghiệm định kỳ, điều trị kịp thời… Tất nhiên, việc sử dụng bao cao su cũng rất quan trọng, nó có thể ngăn ngừa phần lớn các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI).”
Năm ngoái, có gần 6.000 ca chẩn đoán giang mai, phần lớn ở nam giới, nhưng số ca ở nữ giới đã tăng gấp bốn lần trong 10 năm qua. Hơn 44.000 ca bệnh lậu và gần 102.000 ca chlamydia được ghi nhận, trong đó khoảng một nửa ca chlamydia là người từ 20-29 tuổi.
Các ca HIV thực ra đã giảm trong thập kỷ qua, với hơn 750 ca được ghi nhận năm ngoái - 62% liên quan đến quan hệ tình dục giữa nam với nam.
Giang mai bẩm sinh gây tử vong ở trẻ sơ sinh
Điều khiến các chuyên gia lo ngại là tỷ lệ giang mai bẩm sinh. Trong 10 năm qua, bệnh đã gây ra 34 ca tử vong ở trẻ sơ sinh, hơn một nửa trong số đó là người First Nations.
Tiến sĩ McGregor nhấn mạnh:
Trong thai kỳ, giang mai không được điều trị có thể dẫn đến sẩy thai, thai chết lưu, giang mai bẩm sinh gây khuyết tật suốt đời và tử vong ở trẻ sơ sinh. Đây là hậu quả nghiêm trọng nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa.
Tỷ lệ bệnh lậu, giang mai và chlamydia cũng cao hơn 2-5 lần ở nhóm First Nations. Ông Robert Monaghan, Quản lý Nghiên cứu Sức khỏe người First Nations tại Viện Kirby, cho biết:
“Phần lớn vấn đề liên quan đến khả năng tiếp cận dịch vụ, chẩn đoán và điều trị kịp thời, đặc biệt tại các cộng đồng Aboriginal vùng xa. Vấn đề còn liên quan đến quyền lựa chọn: hầu hết cộng đồng chỉ có một lựa chọn duy nhất - Dịch vụ Y tế do Cộng đồng Aboriginal quản lý. Họ làm việc xuất sắc nhưng năng lực có hạn.”
Bất bình đẳng trong xét nghiệm và phòng ngừa
Báo cáo cũng cho thấy chỉ 16% người từ 16-49 tuổi từng xét nghiệm STI. Các nỗ lực nâng cao tỷ lệ xét nghiệm và giảm kỳ thị đang được triển khai, bao gồm bộ kit tự xét nghiệm và tư vấn STI trực tuyến.
Tuy nhiên, Tiến sĩ McGregor cho rằng vẫn cần nhiều hơn:
“Chúng tôi nhận thấy tình trạng này phản ánh sự bất bình đẳng lâu dài trong xét nghiệm, phòng ngừa và chăm sóc sức khỏe. Cần tập trung xác định ai đang bị bỏ sót. Ví dụ, hầu hết các bà mẹ có con mắc giang mai bẩm sinh không được xét nghiệm sớm. Do đó, chúng ta cần hợp tác với cộng đồng chịu ảnh hưởng nhiều nhất để triển khai các chương trình giảm nhiễm trùng.”
Ông Monaghan cũng nhấn mạnh mục tiêu xóa bỏ kỳ thị và xấu hổ:
“Cần nâng cao giáo dục sức khỏe trong trường học, bắt đầu các cuộc trò chuyện sớm để xóa kỳ thị. Giáo dục về STI và BBV đang giảm trong các khu vực này. Các chương trình cộng đồng cần được thiết kế cùng cộng đồng, họ phải có quyền sở hữu chương trình - đó là kết quả tốt nhất.”
READ MORE

SBS Việt ngữ