Người ta cũng nghe được những bất đồng về mặt quốc tế trong lịch sử của tòa án nầy, trong đó vài chuyện có liên quan đến nước Úc.
Các thảm kịch chiến tranh và sự tàn phá diễn ra sau Thế chiến thứ hai có thể nói không thể ước lượng được.
Có hơn 60 triệu người chết, các thành phố và thị trấn trở thành bình địa trong chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất có hai thập niên.
Đó là nội dung của việc thiết lập nên tổ chức Liên hiệp quốc và cơ quan tư pháp là Tòa án Quốc tế.
Đó là một ý tưởng đơn giản với một pháp đình thế giới làm trọng tài phân xữ cho các tranh chấp quốc tế.
Ông Philppe Couvreur, một lục sự của tòa án nầy hiện phục vụ trong nhiệm kỳ thứ ba, mỗi nhiệm kỳ kéo dài 7 năm.
Ông bắt đầu sự nghiệp với tòa án vào năm 1982 và cho biết, đã có rất nhiều đổi thay kể từ lúc đó.
"Tính chất của các vụ kiện đã biến chuyển, nguyên thủy tòa án rất bận rộn với các vấn đề ranh giới trên bộ hay trên biển, và đây là những vấn đề hết sức quan trọng để ngăn tránh các cuộc xung đột".
"Thế nhưng từ thập niên 1980, tòa án được triệu dụng để giải quyết cãc tranh chấp có tính cách chính trị quan trọng hơn, các trường hợp liên quan đến vấn đề xử dụng vũ lực giữa các nước, vì vậy hoạt động của tòa án đã biến đổi, theo các mối quan hệ quốc tế".
Toà án đã ban hành khoảng 70 phán quyết trong khoảng thời gian từ năm 1946 cho đến năm 2000.
Con số nầy có vẻ không nhiều, thế nhưng hãy xem xét về cách thức tòa án hoạt động.
Các nước thành viên Liên hiệp quốc phải nhờ đến tòa án Quốc tế để giải quyết các tranh chấp.
Nói khác, các nước phải đồng ý xuất hiện trước tòa và bị ràng buộc với quyết định của tòa.
Đó là một trong các chỉ trích chính yếu đối với tòa án và nhiều người cho rằng, việc nầy đặt ra một thách thức khi theo đuổi công lý.
Thế nhưng ông Couvreur nói rằng, đó cũng là một đặc tính quan trọng của tòa.
"Điều rất quan trọng là các quốc gia được tự do chọn lựa, cách thức để giải quyết các tranh chấp".
"Nghĩa vụ của họ là hai nước giải quyết sự việc một cách hoà bình, thế nhưng các phương tiện là do việc chọn lựa của các nước và chỉ khi họ chọn đưa ra trước tòa án, thì tòa án mới hành động".
"Hiện nay để nói rằng tòa án không thành công chắc chắn là không đúng, bởi vì khi tòa án được vận dụng đến, tòa án giải quyết tranh chấp một cách hữu hiệu".
"Hầu như không có phán quyết nào của tòa trong 70 năm qua, đã không được tuân hành ngay lập tức".
Giáo sư chuyên về luật quốc tế của Đại học Quốc gia Úc châu, ông Kervin Boreham nói rằng, nhiều quốc gia nên được khuyến khích để chấp nhận phán quyết của tòa án.
"Cách thức tốt nhất để mở rộng thẩm quyền của tòa án, là khuyến khích các quốc gia tuân thủ những gì được gọi là chế độ cưỡng hành của tòa án".
"Đó là một từ ngữ hướng dẫn hơi sai lạc, bởi vì thực sự là mọi điều đều có tính cách chọn lựa".
"Không may chỉ có 65 quốc gia đã làm chuyện đó, ít hơn 1 phần 3 các quốc gia là thành viên của Liên hiệp quốc".
"Vì vậy một chiến dịch đẩy mạnh để có nhiều nước chấp nhận chế độ tư pháp cưỡng hành của tòa án, có nghĩa là tòa án có thể giải quyết với phạm vi rộng lớn hơn các trường hợp".
"Tôi nghĩ cuối cùng tất cả các yếu tố đó, cấu thành sự an toàn nhất định về mặt luật pháp, để khiến các quốc gia chọn xử dụng tòa án nầy". Ông Philppe Couvreur, một lục sự của Tòa án Quốc tế.
Các vụ kiện tụng nổi tiếng diễn ra tại The Hague, liên quan đến vụ kiện giữa Croatia và Serbia.
Croatia cáo buộc Serbia đã vi phạm hiệp ước về diệt chủng tại Croatia từ năm 1991 cho đến 1995.
Còn Serbia cho rằng Croatia chịu trách nhiệm về vụ diệt chủng năm 1995.
Chánh án của tòa án quốc tế là ông Peter Tomka cho rằng, quân đội của cả hai nước đều vi phạm các tội ác trong cuộc xung đột.
Thế nhưng ông cho rằng, ý định thực hiện việc diệt chủng bằng cách hủy diệt toàn thể cả một dân tộc hay một phần, đã không được chứng minh trong cáo buộc của mỗi quốc gia.
"Tòa án xem xét chuyện đó, ngay cả cứu xét về cả hai phía và diễn dịch theo ý nghĩa đương thời về mặt chính trị và quân sự".
Vào năm 2014, nước Úc mang một vụ kiện ra trước tòa về vụ săn bắt cá voi ở Nam cực.
Úc cho rằng Nhật bản xử dụng chương trình nghiên cứu khoa học để che đậy cho việc đánh bắt cá voi về mặt thương mại.
Toà án phán quyết chống lại Nhật bản và thẩm phán Tomka tuyên bố.
"Tòa án kết luận rằng, giấy phép đặc biệt cấp cho Nhật bản trong việc săn bắt cá voi liên quan đến chương trình JARPA II, là không nhằm mậu dịch nghiên cứu khoa học".
"Ưu tiên của Nhật bản là duy trì việc nghiên cứu về hoạt động không ngừng nghỉ của cá voi, cũng như nước nầy đã làm trước đây, khi bắt đầu chương trình JARPA trong năm đầu tiên, sau khi việc săn bắt cá voi nhằm mục đích thương mại đã được nêu lên".
Giáo sư Boreham thuộc đại học ANU nói rằng, tòa án quốc tế nói chung được xem là một định chế có ích cho nước Úc, trong việc dàn xếp các tranh chấp.
"Nước Úc tìm thấy tòa án là một phương tiện hữu hiệu, khi một cơ quan có thể diễn dịch và áp dụng các qui luật, vốn là một phần quan trọng của hệ thống quốc tế, để có thể tiến hành theo một đường lối có thể tiên đoán được, qua một loạt các luật lệ có thể thấy trước được".
Trong 20 năm qua, tòa án đã nghe nhiều vụ kiện, hơn khoảng thời gian 50 năm trước.
Bất chấp các chỉ trích về tòa án, ông Philippe Couvreur cho biết ông hy vọng các nước sẽ tiếp tục xử dụng toà án, để giải quyết các vụ tranh chấp quốc tế một cách ôn hòa.
"Các quốc gia đã tin tưởng mạnh mẽ vào tòa án nầy, như là một cơ chế chính yếu của Liên hiệp quốc vì nhiều lý do, đó là an ninh và họ đoán trước được cách giải quyết của tòa án".
"Các phán quyết của tòa án có tính cách vĩnh viễn và công bằng, do tòa án có một quá trình xét xử lâu dài".
"Tôi nghĩ cuối cùng tất cả các yếu tố đó, cấu thành sự an toàn nhất định về mặt luật pháp, để khiến các quốc gia chọn xử dụng tòa án nầy".



