Khó khăn và động lực vượt biên
Vào cuối năm 1981, bà quyết định vượt biên cùng hai con nhỏ. Bà chia sẻ động lực chính là vì tương lai của con cái: “Mình nghĩ là chắc cũng có nhiều người cũng ờ qua cái quá trình giống hệt như mình vậy đó, à thì người ta bảo rằng là nước tới thì mình phải lội thôi. Thành ra vì tương lai của hai đứa con mà mình phải đi”. Khi các con đi học, chúng phải học những điều như “không có bản thân, không có gia đình và không có tôn giáo”. Những bài học này cùng với việc con phải đi đào đất đã khiến bà nhận thấy: “cái tương lai của bộ nó không có rồi, mà mình chỉ sống cho con, mà nếu tương lai con không có thì thì sống để làm cái gì”.
May mắn, chuyến đi của bà chỉ kéo dài 36 tiếng trên biển và được cứu vớt vào Singapore. Nhờ có bằng cấp, bà được làm việc ngay tại trạm y tế và nhà thương ở Singapore.
Bắt đầu lại từ con số không tại Úc
Khi tới Úc, mọi thứ đều phải bắt đầu lại từ đầu. Với bằng cấp cũ nhưng không có tiếng Anh, bà phải đi xin việc làm ở các công xưởng nhưng bị từ chối. Bà chia sẻ: “nó thấy người ốm mà nhỏ rồi này kia các nọ, nó thấy không được rồi vô làm factory làm được cái gì, cái nó cho đi ra”.
Sau đó, bà nhận công việc may đồ tại nhà, nhưng thu nhập rất thấp. “cuối một tuần lễ nhận được rồi bảy giờ đưa con đi học rồi rồi mình đi học, cái rồi hồi mình chưa đi học nha, thì trở về tiếp tục may, tiếp tục may cho đến khuya mười hai giờ một giờ sáng mà cuối tuần lại thì mình nhớ là lãnh được ba mươi hai đồng mấy chục đồng”. Bà thậm chí đã viết thư về cho mẹ ở Việt Nam và nói: “con nghĩ rằng con là cái người mà à làm việc được trả giá rẻ nhất trên thế giới”. Sức khỏe bị ảnh hưởng do bụi vải khiến bà quyết định đi học trở lại. Mặc dù nhiều người cùng thuyền khuyên rằng “chị lớn tuổi rồi đi học làm chi” , bà vẫn kiên trì vì nghĩ: “nếu mà mình không đi học thì mình không theo được cái đà tiến triển về văn hóa và đặc biệt là không biết tiếng Anh thì làm sao mà dạy con được”. Bà được nhận vào Đại học New South Wales.
Bước ngoặt trong sự nghiệp nghiên cứu
Tại Úc, bà quyết định không theo ngành sản khoa nữa vì ám ảnh bởi những trường hợp thai nhi bị dị tật do chất độc màu da cam. Kinh nghiệm ở trại tị nạn Singapore, khi chứng kiến những người đau khổ vì chấn thương tâm lý, đã thúc đẩy bà đi theo ngành tâm thần: “mình mới thấy những cái cảnh như vậy rồi có nhiều cô bị hãm hiếp thấy thương quá, mình nghĩ chắc là mình phải đi tìm hiểu, mình đi học để giúp cho mấy người này, thành ra từ đó mà bắt đầu lên”.
Giáo sư Tường Phan đã thực hiện nhiều nghiên cứu quan trọng về sức khỏe tâm thần của người Việt tị nạn, bao gồm:
Năm 2002: “Phan Vietnamese Instrument”, một thang đo tâm thần học Việt Nam, kết hợp kinh nghiệm truyền thống Việt Nam với phương Tây để đo lường các vấn đề về lo âu, trầm cảm, rối loạn cơ thể. Bà cho biết công cụ này mất 5 năm để thiết kế và đã được áp dụng ở 12 quốc gia.
Năm 2002: “long term effect of psychological trauma on the mental health of Vietnamese refugees settled in Australia” (Ảnh hưởng lâu dài của chấn thương tâm lý lên sức khỏe tâm thần của người tị nạn Việt Nam tái định cư tại Úc).
Chấn thương tâm lý và cách chữa lành
Khi được hỏi về những ám ảnh của người tị nạn như sợ mũ cối, sợ cờ đỏ hay không dám ra biển, Giáo sư Phan cho biết đây là biểu hiện của Hội chứng Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) . Bà giải thích rằng không chỉ người Việt mà cả cựu chiến binh ở các nước khác cũng bị hội chứng này . Những hình ảnh về chiến tranh và vượt biên đã "rất là traumatize, không quên được đâu" . Bà cho rằng chấn thương này không thể chữa trị hoàn toàn mà chỉ có thể giảm bớt các phản xạ thông qua sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè và cộng đồng . Bà nhấn mạnh: "cộng đồng Việt Nam rất là quan trọng để giúp đỡ cho người ta, để bảo bọc cho người ta coi như có tình bạn chia sẻ đó, chứ còn cái đó đâu có chữa trị được"
Giáo sư Tường Phan hiện là giám đốc và người sáng lập tổ chức từ thiện Future School, một quỹ từ thiện của Úc cung cấp học bổng cho trẻ em nghèo.